Выбрать главу

- Lúc này mà còn tằm tơ cái chi! Có biết mấy chuyện quốc gia đại sự. Phải xẻ lỗ mũi mà thở. Đem tằm đổ quách!

Chị Bốn bỏ nhỏ:

- Việc nhà tôi lo xong hết. Anh muốn đi đâu thì đi. Nhà còn có thằng Cù Lao, việc chi hắn cũng giỏi.

Anh Bốn doạ:

- Năm nay, thế nào cũng lụt sớm! Rồi sẽ hộc máu cho mà coi! Hễ chết, tôi không thèm chôn đâu!

Chị Bốn thấy chồng nói có lí. Làm tằm phải có người đứng buồng, làm mọi việc nặng nhọc, phải đằng đẵng một tháng mới xong. Nay anh Bốn đi vắng thì ai lo? Nhưng coi đi coi lại, thấy tằm tốt quá. Ác một nỗi, những thầy tằm đến xem, ai cũng bảo từ cha sinh mẹ đẻ, họ chưa thấy tằm nào tốt vậy! Thằng Cù Lao xem tằm cũng quả quyết là tằm tốt. Tằm tốt như vậy thì ai nỡ đổ đi cho được! Chị Bốn cứ lăn vào lo cho tằm. Anh Bốn vẫn can ngăn, nhưng nói yếu yếu:

- Tôi nói cho mà biết, qua sông bắt cọp, chết không kịp hối đó!

Chị Bốn biết anh Bốn đã núng, liền lí sự:

- Ở trên đề ra phải đánh giặc và tăng gia. Anh Bốn giết giặc, tôi lo tăng gia. Làm đúng chủ trương, còn chi nữa!

Anh Bốn phải chịu, tự nghĩ: "Con vợ mình chính trị thế mà cao! Đàn bà họ sáng dạ lắm!".

Chị Bốn mang giỏ đi hái dâu dưới rộc. Chị là tay hái dâu loại giỏi. Giữa những cành dâu, hai tay chị như đôi bướm lượn, không ai nhìn kịp. Dâu cuối mùa ít lá, chị phải nhờ các chị trong xóm đi hái giúp. Họ gánh đôi giỏ bông, bụng giỏ tròn như chiếc chum to, đi hái dâu tận ngoài bãi. Thằng Cù Lao, chú Hai Quân giúp vào việc cho tằm ăn, việc gạt phân, lượm tằm, việc nấu cơm, đem nước. Các chị kéo ra bãi dâu lúc gà gáy, hết hát hò lại bàn tán trăm thứ chuyện, chuyện ông Bảy Hoá dẹp bàn thờ Thập Điện, tất cả những tranh vẽ quỷ sứ cưa người, đốt người, ông Bảy đều đốt hết. Nhiều chị muốn phụ nữ phải thành lập một hội "tương tế", mục đích để bênh vực cho nhau. Hễ người nào bị chồng đánh thì hội viên có nhiệm vụ xông vào bênh vực. Phụ nữ cũng phải có người bác sĩ, kĩ sư. Trước mắt phụ nữ phải kiếm ít chữ bỏ bụng, để viết thư cho chồng làm ăn ở xa mới được!

Chị Bảy Có trong lúc vui miệng, nói toạc ra là mình vừa được tin của anh Bảy "trong nớ" gửi về. Anh báo cho biết là anh còn sống, hiện này ở xứ Dầu Dây. Chị Bảy đã đến nhà thầy Lê Hảo nhờ thầy viết thư gửi lại. Thư viết bằng văn vần:

"Tạm đôi hàng chữ mực

Gửi đến chốn Dầu Dây

Ngày những trông tin nhạn trong mây

Đêm thức giấc, tiếng tiêu thánh thót.

Hỏi ai đã quên lời thề ước

Tít mù khơi muôn dặm tếch buồm loan!"

Thư của thầy Lê Hảo viết bao giờ cũng bắt đầu bằng "Tạm đôi dòng chữ mực..." và chấm dứt bằng câu "Thơ bất tận ngôn". Chị Bảy đưa thư nhờ tôi đọc, tôi đọc đi đọc lại cho chị nghe, chị thuộc làu. Thấy bên lề còn chỗ giấy trống chị nhờ tôi thêm mấy chữ: "Anh đã nói về thì nhất định phải về. Cách mạng lên rồi, ở làm chi trong nớ? Ở quê mình, ông Hai Quân, anh Bảy Hoành cũng về rồi. Chớ có ham phú phụ bần, mau mau trở lại! Nay thơ. Vợ: Bảy Có".

Chị Bảy bảo tôi đọc thơ cho chị Bốn, chị Ba nghe. Ai nấy cũng chịu là thầy Lê Hảo văn hay từng chữ, chữ nào nghe cũng réo rắt. Thằng Cù Lao cũng khen là giỏi vì thầy Lê Hảo có nói đến buồm, đến mù khơi, đến muôn dặm. Các thứ đó ở dưới biển nhiều lắm...

* * *

Đã đầu tháng chín âm lịch, nhưng nắng vẫn như đốt. Buổi sớm mù tan, nắng đã loá nóng. Càng vể trưa, nắng càng cô lại. Chim chích mệt mỏi núp trong ngàn lá lặng thinh. Bọn chó Vện chó Vàng thè lưỡi liếm nước nuốt ực ực. Trâu Bĩnh quay qua quay lại trong chuồng giục đi uống nước. Chị Ba đi làm về lấy nón xuống quạt, mặt đỏ gay.

Chợt một hôm da trời lại xám. Mây chăng mù mịt. Thỉnh thoảng lất phất vài hạt mưa thưa. Mưa nặng hạt dần. Mưa ào ào đổ. Sông Thu Bồn nước xanh leo lẻo trở đục ngầu, đôi bờ rộng dần ra. Rác rều kết thành bè trôi nhanh hơn ngựa tế. Nước lụt chảy vào hói, trườn lên các bãi dâu. Dượng Hương Thư đưa xuồng vào giúp chị Bốn. Hái dâu phải đi bằng xuồng. Chú Hai giao cho thằng Cù Lao việc lèo lái. Nó phóng sào xuống nước, chống sào, xuồng băng băng lướt về phía trước, điệu bộ của nó thật hiên ngang.

Chị Bảy cười:

- Nó giống như ông Mười Ý ở ngoài vạn lúc xổ buồm ra khơi!

Xuồng lướt dọc bờ rộc. Thằng Cù Lao vừa chống vừa quay sào thọc những anh chuột leo ngồi trong bụi tre. Thằng Cù Lao lái thuyền chui vào nhưng thửa dâu còn lá nhô trên mặt nước. Chị Năm Nhự biết đến mấy trăm câu hò. Nhưng đi hái dâu bằng xuồng chị đành chịu không hò được câu nào cả. Xuồng cứ tròng trành, lỡ một tí là có thể rơi tòm xuống nước.

Chỉ mới một hôm mà cả đất trời đã đổi khác. Những hàng bã đậu đã lút đâu mất. Ghe thuyền ngoài vạn vào nằm ngay trên đường cái, cột buồm nhấp nhô ngay cạnh miếu Bà Tằm.

Nước bạc trải mênh mông. Làng mạc nom xa tít. Chị Năm Nhự hỏi thằng Cù Lao:

- Ngoài biển nước có nhiều như ri không?

- Nhiều lắm. Ngoài khơi chỉ thấy trời với nước.

Chị Năm đọc khe khẽ:

Ngó lên biển bốn trời ba

Buồm giương hai cạnh, cửa nhà hai hơi.

Tiếng chèo đập nước cứ bì bõm. Thuyền vớt củi từ ngoài sông đã chèo vào, trong khoang chất đầy củi mục, có chú Năm Mùi ngồi sau lái.

Chú Năm vừa nhìn thấy thằng Cù Lao nổi kêu to:

- Nhỏ vậy mà lèo lái giỏi hung! Làm ông thuỷ sư đô đốc được đó!

Chú Năm cười. Chú nhắc chị Năm Nhự:

- Tối nay nhớ họp đó!

- Lụt lội mà họp cái chi!

- Lụt ngập đầu cũng phải họp. Nhiều việc gấp lắm.

Dân chài lưới kéo nhau đi xúc cá. Có đến vài chục chiếc xuồng. Mỗi xuồng có hai người ngồi. Người ngồi sau lái bơi xuồng, người ngồi trước mũi cầm một chiếc xúc giống như chiếc vợt chìm xuống nước. Hai mươi chiếc xuồng rồng rắn lượn qua lượn lại, đan vào nhau, né nhau, như đang biểu diễn điệu múa. Thằng Cù Lao chống thuyền lướt qua nhanh giữa đám múa. Các chị nhìn nó đầy vẻ thán phục.

Thằng Cù Lao giúp chị Bốn phơi dâu, cột gác, dọn nong dọn nia, vì có cầu vồng mọc ở phía núi Cu Đê. Sẽ có bão! Nhưng không hiểu sao mưa lại tạnh dần. Đến chiều trời hửng. Lúc mặt trời lặn, đột ngột cỏ cây hoa lá nhuộm một màu vàng rực. Tất cả bật thành tiếng. Đàn chim sẻ kêu chiêm chiếp, rộn lên. Bọn bồ chao kêu hót om sòm. Gà xôn xao nổi gáy. Vịt cạc cạc không biết mỏi miệng. Chỉ có nước là lặng im. Nước lặng im một lúc rồi lại róc rách để rút xuống.