Выбрать главу

Tiếc thay chút nghĩa cũ càng

Dầu lìa ngó ý còn vương tơ lòng

Duyên em dù nối chỉ hồng

May ra khi đã tay bồng tay mang.

Là con... bát bồng.

Tiếng trống lớn, tiếng chiêng nổi lên u, ầm! Tiếng trống nhỏ tom, tom, cắc! Tiếng đàn nhị ò e, ò e! Tiếng mõ lốc cốc! Cờ ngũ sắc bay lại bay qua.

Hết con bài bát bồng, đến con bài ông ầm, rồi con nhứt nọc, con nhì nghèo, con bạch huê, con tam quăng, con tứ gióng... Có lẽ đó là những con vật rất kì dị ở những thế giới thần tiên đâu đâu. Chúng hiện ra từng hàng đầy đủ lông lá, màu sắc huyền ảo.

Chú Năm, hoặc lấy từ trong Kiều, trong Lục Vân Tiên, trong Thạch Sanh và trong các loại vè trên đời, hoặc tự ứng khẩu sáng tác ngay tại chỗ, phục vụ kịp thời. Giọng của chú trầm bổng, ngân nga, reo vui, thanh thoát là tuỳ theo nội dung câu thơ chú hò. Không chỉ chúng tôi quên mệt, quên ăn quên ngủ, mà cả Hoà Phước đều mê cái giọng chú. Chú Năm phục vụ suốt mấy ngày Tết mà không lấy một đồng xu nào cả.

Tôi nói lơ lửng:

- Làm vài câu đi chú!

- Một chữ tao cũng không làm, chớ đừng nói vài câu! Mày nghĩ, cách mạng lên rồi, tao cũng là chỉ huy tự vệ, ai lại đi hô cái đánh bài chòi!

- Vậy chú ngâm Lục Vân Tiên đi. Chỗ Nguyệt Nga ôm bức tượng Lục Vân Tiên trầm mình dưới sông, chú cũng thích!

- Đó là lúc trước, nay mày có cạy răng tao cũng không làm thứ đó nữa đâu! Gà đã gáy kia kìa. Cho sắp bay đi ngủ. Tao vừa mới biết trẻ con phải ngủ đúng tám giờ một ngày mới chịu lớn. Để tao thức một mình vầy tằm cũng được.

* * *

Tôi bừng mắt, có tiếng cửa bị xô mạnh. Ánh sáng bên ngoài tràn vào. Trời đã sáng trắng. Khi hôm thức vầy tằm, mãi đến gà gáy mới ngủ. Chú Năm chuẩn bị việc bắt kén. Chú mở hết cửa, khiêng xếp các bủa kén lại một chỗ, trải hai chiếc nong giữa nhà, khiêng một bủa kén đặt lên. Mọi người bước đến mở gút lạt, giở nẹp, giở những cây dâu khô dính đầy kén như những hoa vàng. Giống kén bậc mày mốc, dày tơ, bán được tiền. Ai cũng mừng cho chị Bốn đánh ván cuối mùa lại được ăn to. Ông Bảy Hoá cầm một chuỗi kén dính liền nhau, giơ lên cho mọi người thấy. Kén dính liền nhau là điềm báo trước chị Bốn sẽ còn trúng tằm nữa. Sang năm, chị Bốn sẽ trúng bảy lứa tằm liên tiếp, vì có cả thảy bảy kén dính liền nhau.

Có tiếng cười nói ồn ào trước ngõ. Ông Trùm Khéo đã đến. Chính ông là người bán giống tằm cho anh Bốn Linh. Ông tiếp lời ông Bảy:

- Tại sao chỉ trúng bảy lứa? Phải trúng hai mươi lứa chớ!

Mọi người cười ồ:

- Mỗi năm làm được năm lứa tằm đã đứt hơi. Nay ông Trùm có cách làm đến hai mươi lứa!

- Thì có chi đâu! Anh chị Bốn chỉ thuê thêm bốn trai đứng buồng, làm đủ bốn buồng tằm. Mỗi buồng làm năm lứa, có phải vị chi là hai mươi lứa không nào?

Ông Trùm Khéo xắn tay áo, thét to:

- Nay non sông đã độc lập. Dân ta đã mở mày mở mặt với bốn biển năm châu, vậy ai còn chịu mặc thức vải thô dày như bao bố đó nữa? Phải mặc lụa với nhung. Nay mai nuôi mấy tằm cho đủ. Ông Bốn Linh trúng tằm, phải sắm một tủ sắt để đựng tiền. Tôi xin cam đoan như vậy!

Bọn trẻ con trong làng đứa nào cũng biết ông Trùm Khéo. Hằng năm, bắt đầu mùa xuân, ông lại xuất hiện. Ông đi qua làng, mặc chiếc ao thao màu gụ, móc trước ngực một chiếc quạt giấy thật to, cõng sau vai một chiếc bầu bằng tre. Chiếc bầu có xỏ một chiếc đòn xóc cong queo như một cái móc. Nhờ chiếc đòn xóc đó ông Trùm Khéo đã cõng được bầu. Ông nhớ hết tên họ mọi người. Khi đi ngang qua Hoà Phước, ông dừng lại, nói rất tự nhiên:

- Anh Bốn Linh, có trứng tằm của anh đây!

Nếu không mua, ông Trùm Khéo quả quyết:

- Không mua thì mất trúng!

Ông biết mặt hết bọn trẻ con. Gặp tôi ông gọi:

- Nè Cục. Ông coi bộ giò mày cao, chắc là chạy giỏi. Chạy mau về hỏi cha mày có mua trứng nòi của ông Trùm không? Nhớ nói trứng của ông Trùm lần này tốt dữ lắm!

Ngày bắt kén, ông đến sớm lo hạ bủa, lo dọn dẹp cùng mọi người, có ý kiến trong mọi vấn đề, luôn luôn đứng về phía chủ tằm, phân tích tất cả những cái tốt của lứa kén cho người mua thấy. Ông cầm một cái kén vừa vê vừa nói với lái kén:

- Các vị hãy xem! Những cái kén trong này còn cứng hơn hòn sỏi. Các ngài bỏ nó vào cối đá, lấy chày đâm mạnh nó vẫn không móp cho mà xem. Kén tốt ắt có nhiều tơ. Kén nhiều tơ sẽ có lợi cho các vị thế nào, cái đó các vị biết rõ.

Vừa gặp thằng Cù Lao, ông Trùm Khéo đã nhớ ngay tên nó. Ông sai nó đun nước để ông thử kén xem kén có bị tan hay không. Thằng Cù Lao chạy như bay. Ông Trùm Khéo nhặt ở mỗi nong sáu bảy cái kén. Ông bỏ kén vào niêu nước sôi lấy đũa đập đập, gỡ vỏ kén, bắt những sợi tơ móc lên xa, quát to:

- Cù Lao! Quay xa mau lên!

Thằng Cù Lao quay xa, tiếng xa cót két, kén trong nồi nhảy nhót lao xao.

Được một lúc, kén mỏng dần, dến lúc chỉ còn những con tằm trắng rơi xuống đáy niêu. Ông Trùm xếp ra quay, mở cuộn tơ, móc lên cổ cho thằng Cù Lao. Chợt ông nhìn nó chăm chăm, chép miệng hỏi:

- Mày ăn chi mà hoá đen thui vậy?

Chú Năm Mùi cho biết nó ở ngoài cù lao Chàm mới về.

Ông Trùm Khéo trở lại vui vẻ:

- Về đây là hết sức phải. Về đây làm tằm. Vì đã là dân xứ này thì không thể không làm tằm. Nghề nông và nghề tằm là căn bổn, "nông tang vi bổn" như thánh đã dạy. Mọi người dân không biết làm tằm đó là người ngoại quốc đâu đâu, chớ không phải người Việt Nam ta!

Ông Trùm Khéo quay sang chú Năm Mùi:

- Xứ này có giàu sang cũng nhờ tôi cả. Tôi đã chọn những kén giống tốt ở khắp các ngõ nguồn đưa về đây làm giàu cho thiên hạ. Có trứng rồng mới nở ra rồng. Cách mạng lên rồi, nhất định Uỷ ban sẽ cử tôi làm uỷ viên nuôi tằm. Tôi mà lãnh chức uỷ viên thì tất cả người dân xứ ni đều được nuôi tằm, đều được ăn sung mặc sướng, ăn toàn thịt cá, mặc toàn tơ lụa!

Chú Năm Mùi hỏi to như muốn mọi người đều nghe:

- Ông Trùm vừa nói xứ này có giàu sang là nhờ có ông Trùm. Đáng lí ra họ phải cảm ơn, nhưng ông Trùm lại bị đàn bà xứ này vác gậy đuổi chạy?

Ông Trùm Khéo cười xoà: