- Tao xem đi xem lại, thằng đó cũng là mọi biển. Mọi biển là thằng nào cũng đen như đít trã. Mọi núi cũng đen. Bọn ở cao càng đen, vì gần mặt trời. Mọi cao có giống có đuôi. Chúng có một thứ "ngải" kinh lắm!
Nó kể lại một lần đi theo cha nó lên nguồn gặp mọi có đuôi biết bỏ ngải. Bị bỏ ngải là bỏ xừ! Cái bụng sẽ phình lên, to mãi, căng mãi ra rồi, đoàng! Bụng nổ như pháo cối, ruột gan văng tung đi hết...
Nhưng chuyện bụng nổ như pháo cối không hấp hẫn bằng chuyện cái đuôi. Một thằng hỏi:
- Nhưng tao muốn hỏi cái đuôi nó mọc chỗ nào? Có phải mọc chỗ này không? - Vừa hỏi nó vừa sờ vào chỗ mông của thằng đứng bên cạnh. - Nó to hay nhỏ, giống cái đuôi lợn lăng quăng hay cái đuôi trâu? Như vậy nó cứ cộm, làm sao ngồi đặng?
Thân đầu trọc giơ ngón tay út:
- Bằng cái lóng tay này nè. Ghế ngồi đều phải đục một cái lỗ trống.
Một vài đứa tiếc rẻ là lúc nãy quên xem thằng mọi biển có cái đuôi hay không.
Thân đầu trọc quả quyết:
- Làm gì có đuôi! Nhưng nó biết uống nước bằng lỗ mũi, uống được nước mặn!
Một thằng ở xóm dưới bỗng nổi cười lăn cười lóc:
- Bay nè! Tao gặp nó ngoài chợ. Ai đời, hì hì! Cái "dung" đậy cái nồi mà nó nói là cái vung. Cái trã nó gọi là cái trách. Có trách móc ai đâu. Hì, hì! Nó nói với bà bán nồi: Bán cho tôi cái vung để đậy cái trách. Bà bán nồi chịu chết, không biết nó nói cái chi chi, hì, hì! Đi "dề" nhà, nó nói đi huề nhà, hì hì! Nó uống nhiều nước mặn nên bị cứng lưỡi! - Nói đến đây nó ngã lăn xuống đất, ôm bụng cười rũ rượi.
Một đứa khác phụ hoạ:
- Nó chẳng biết mốc gì cả. Hôm qua tao lại chỗ nó. Nó lấy tay đánh đốp, đập chết con muỗi. Nó lượm con muỗi đem ra sân ngắm nghía như một con gì lạ. Thấy người ta ăn nhộng, nó sợ mất máu. Nó nói là ăn sâu.
Một thằng khác chép miệng tiếc rẻ:
- Uý! Nhộng ngon vậy mà không biết ăn! Nó ăn cái chi?
- Tao thấy nó mua đường với mắm cái.
- Uý mẹ ơi! Kinh lắm! Ăn đường với mắm cái phải oẹ ra hết!
Một vài đứa khạc nhổ rồi nôn oẹ như chính mình vừa ăn đường trộn với mắm cái.
- Thấy con ngỗng, nó không biết con chi. Gặp trâu nó tránh xa, giương mắt ếch. Nó nhát như cáy. Gặp nó, tao thét một tiếng, nó hoảng cái chơi!
Một đứa đầy vẻ quan trọng:
- Tao xem thằng này dị tướng! Nó lại ở xứ biển Đông, chỗ mặt trời mọc. Thầy Lê Hảo nói phát xít Nhật cũng ở chỗ đó. ở cùng một chỗ, chúng phải quen nhau. - Nó hạ thấp giọng: - Phải coi chừng mới được!
Đến đây không khí bỗng đổi khác. Đứa nào cũng hoá nghiêm nghị tưởng như mật thám Nhật đã đột nhập vào sông Thu Bồn. Một đứa nhìn khắp chung quanh:
- Phải báo Uỷ ban bắt quách!
Trưa hôm đó, đưa trâu về nhà, tôi thuật lại với chị Ba tôi vừa gặp một thằng mọi biển. Tên nó là Cù Lao, ở ngoài cù lao Chàm mới về. Thấy chị Ba nghe có vẻ chăm chú, tôi càng nhấn thêm một vài chi tiết có vẻ giật gân. Nào là thằng Cù Lao đó trông rất gớm ghiếc. Nó biết uống nước bằng lỗ mũi. Cặp mắt nó con nhỏ con to cứ lấm lét. Chị Ba nghe xong xì một tiếng:
- Làm gì có mọi biển mọi núi! Họ cũng là người như ta cả. Thằng Cù Lao đó là con của chú Hai Quân. Chú Hai Quân ở ngoài cù lao Chàm về đây hôm qua. Trước kia bị lý trưởng đánh, chú bỏ làng đi mất. Chú cùng họ với nhà mình, chú của anh Bốn Linh đó. Chú có đứa con trai, chắc là thằng mày gặp. Chúng mày ma cũ ăn hiếp ma mới. Chớ bịa đặt những chuyện bậy bạ!
Cách nói của chị Ba có một cái gì quả quyết làm tất cả những điều tôi tưởng về thằng Cù Lao bỗng tan ra mây khói. Chị Ba bảo tôi đi xúc ngô ra giã. Tôi xách mủng leo vào cót xúc một mủng bắp đổ vào cối. Chị Ba hứa sẽ làm món lớ bắp. Nghe vậy tôi giã càng nhanh. Chợt chị Ba ra hiệu bảo tôi dừng chày:
- Im để nghe thử!
Hình như có tiếng ai khóc. Tôi dừng chày lắng nghe. Rõ ràng có tiếng kể lể từ phía nhà anh Bốn Linh đưa lại. Chị Ba gác chày lên cối, bỏ chạy. Tôi vứt chày chạy theo.
Trước nhà anh Bốn Linh, bọn trẻ con đang nhốn nháo. Trong nhà có tiếng khóc ồ ồ và tiếng kể lể.
- Ốí trời ơi! Chị chết đi bỏ một mình anh ở lại... sống một ngày dương gian bằng nghìn ngày âm phủ...
Quái! Chị Bốn Linh hôm qua bị cảm đã nhờ chị Năm Như cào xông. Sau đó lại làm thêm mấy bát cháo hành. Không nhẽ chị Bốn lại bỏ anh Bốn về với ông bà đột ngột như vậy? Tôi nhìn quanh trong nhà cũng chẳng có ai nằm im đắp chiếu, cũng chẳng thấy có cỗ áo quan nào cả. Bác Úc ngồi xếp hàng trên phản cười tủm tỉm. Thầy Lê Hảo cười hà hà. Chú Năm Mùi cười hì hì. Ông Bảy Hoá cười như người ta ho khẹc, khẹc! Ông vừa cười vừa vuốt râu ra bộ khoan khoái lắm. Bộ râu của ông Bảy vừa rậm vừa dài toả xuống đến rốn. Xem điệu bộ ông vuốt râu, người ta tưởng ông còn muốn kéo râu ông dài đến đất. Một người lạ mặt, tóc hoa râm ngồi cạnh bác Úc. Tiếng khóc và tiếng kể lể nổi lên:
- Ối chị Hai ôi! Anh Hai đã về đó mà chị đi đâu?...
Thì ra bà Hiến đang ngồi khóc. Bà là người khóc to nhất. Chị Bảy Có, chị Năm Như ngồi chung quanh cũng thút thít. Tôi rất lạ là trong lúc các bà đang khóc lóc thì bên nam giới lại cười nói ồn ào. Từ nhỏ đến lớn, tôi chưa hề thấy một cảnh vừa cười vừa khóc như vậy. Trong những hội hè đình đám tất cả đều uống rượu, ăn thịt, đều cười hể hả, không ai khóc. Tôi cũng có đi xem những đám ma, nhiều đám to lắm, cũng chỉ thấy người ta khóc. Nếu không khóc cũng làm ra vẻ buồn, chẳng có người cười người khóc bao giờ cả. Bà Hiến nấc lên:
- Khi anh Hai bỏ làng đi thì chị Hai cũng đi biệt tích. Chị em thương nhau từ thuở để chỏm. Con rận, con chí cũng cắn làm đôi, không nhớ không thương sao được!
Ông Bảy Hoá lại vuốt râu dài cười khẹc khẹc:
- Ôi cái bà này! Trước đây anh Hai bị đế quốc phong kiến áp bức, cực chẳng đã phải bỏ làng ra đi. Nay Cách mạng lên rồi. Đất đã lành thì chim phải bay về đậu. Anh Hai về tìm lại quê cha đất tổ, bà con ta phải mừng chớ làm răng bà lại khóc? - Ông bắt chước cách nói lối của hát tuồng - Anh Hai giận làng ra đi, bỏ chị Hai ở lại. Ra ngoài cù lao Chàm lại lấy được một bà khác. Bà sau sinh được một cậu quý tử. Thật là hạnh ngộ!
Ông Bảy Hoá đưa mắt nhìn quanh. Chợt ông chỉ tay vào chỗ góc cột:
- Có phải chỗ nó kia không?
Tôi nhìn theo ngón tay chỉ của ông Bảy Hoá. Thì ra là thằng Cù Lao đang đứng nép sau gốc cột.