Đa-rơ Vê-te thầm nghĩ: «Chỉ tiếc một điều là những người ở hành tinh xa xôi ấy sẽ không nghe được tiếng nói du dương, dịu dàng của người phụ nữ Trái đất, không hiểu được sức biểu hiện của giọng nói ấy. Ai biết được tai họ có cấu tạo như thế nào? Có thể là những kiểu thính giác khác. Duy có thị giác là ở bất cứ nơi nào cũng đều sử dụng những dao động điện từ xuyên qua khí quyển, do đó có cấu tạo hầu như giống nhau trong toàn vũ trụ, và họ sẽ nhìn thấy Vê-đa kiều diễm đang hồi hộp».
Đa-rơ Vê-te không rời mắt khỏi cái tai nhỏ nhắn của Vê-đa bị che lấp một phần dưới một mảng tóc. Anh bắt đầu lắng nghe bài thuyết trình của chị.
Vê-đa Công kể một cách súc tích và rõ ràng về những cột mốc cơ bản trong lịch sử loài người. Chị nói về những thời xa xưa của nhân loại, về cái thời mà các dân tộc lớn nhỏ chia rẽ nhau vì có những xung đột về kinh tế và tư tưởng gây hiềm thù giữa các nước. Chị nói ngắn gọn. Những thời đại ấy mang cái tên chung là kỷ nguyên CR — kỷ nguyên Thế giới chia rẽ. Những người của kỷ nguyên Vành-khuyên vĩ đại không quan tâm lắm đến những cuộc chiến tranh hủy diệt, những khổ đau ghê gớm hay những nhà cầm quyền tuồng như là vĩ đại, có tên đầy rẫy trong các sách lịch sử cổ đại còn giữ lại được từ thời thượng cổ, thời mông muội hay thời tư bản. Họ muốn biết những điều có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều: lịch sử phát triển đầy mâu thuẫn của các lực lượng sản xuất cùng với sự hình thành những tư tưởng, nghệ thuật, kiến thức, cuộc đấu tranh tinh thần vì con người chân chính, vì loài người, sự phát triển nhu cầu sáng tạo ra những quan niệm mới về thế giới, và về những quan hệ xã hội, về nghĩa vụ và quyền lợi và hạnh phúc của con người. Cái cây xã hội Cộng sản tươi tốt đã mọc lên từ những quan niệm đó và phát triển ra khắp hành tinh.
Trong thế kỷ cuối cùng của kỷ nguyên CR — Thế kỷ phân liệt — cuối cùng người ta hiểu ra rằng: mọi nỗi thống khổ của họ đều bắt nguồn từ chế độ xã hội đã hình thành một cách tự phát từ thời kỳ dã man, họ đã hiểu rằng tất cả sức mạnh, tất cả tương lai của loài người có được là nhờ lao động, nhờ những cố gắng hợp nhất của hàng triệu người tự do, được giải thoát khỏi ách áp bức, nhờ khoa học và nhờ việc tổ chức lại xã hội trên cơ sở khoa học. Họ đã hiểu được những quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội, một quá trình phát triển theo mâu thuẫn biện chứng của lịch sử, họ đã hiểu được sự cần thiết phải giáo dục kỷ luật xã xã hội nghiêm ngặt, nhất là khi dân số Trái đất tăng lên thì điều đó càng quan trọng.
Cuộc đấu tranh giữa tư tưởng cũ và mới trở nên gay gắt trong thời đại phân liệt và kết quả là toàn thế giới chia làm hai phe: phe tư bản và phe xã hội chủ nghĩa với những chế độ kinh tế khác nhau. Sự khám phá ra những dạng năng lượng nguyên tử đầu tiên vào thời kỳ ấy và sự ngoan cố của những kẻ bảo vệ thế giới cũ đã suýt đưa toàn nhân loại đến một tai họa ghê gớm.
Nhưng chế độ xã hội mới không thể không chiến thắng, tuy thắng lợi đó bị trì chậm vì việc giáo dục ý thức xã hội gặp rất nhiều khó khăn. Việc tổ chức lại thế giới theo nguyên lý Cộng sản không thể nào có được nếu không cải tạo căn bản nền kinh tế, không diệt trừ nạn đói nghèo và loại bỏ công việc lao động nặng nhọc, cưỡng bức. Nhưng việc cải tạo kinh tế đòi hỏi sự quản lý sản xuất và phân phối rất phức tạp, điều đó không thể có được nếu không giáo dục ý thức xã hội cho từng người.
Xã hội Cộng sản không phải một lúc đã bao trùm được tất cả các dân tộc và các nước. Phải có những cố gắng hết sức lớn mới xóa bỏ được hằn thù và đặc biệt là sự dối trá đã tích lũy lại do việc tuyên truyền thù địch trong cuộc đấu tranh tư tưởng của thế kỷ phân liệt. Trên con đường phát triển những quan hệ mới của loài người, người ta đã phạm không ít sai lầm. Đã có những cuộc nổi loạn do những phần tử lạc hậu ưa thích chế độ cũ gây nên: vì ngu dốt, họ toan phục hồi quá khứ, tưởng rằng bằng cách đó, họ sẽ tìm được lối thoát dễ dàng ra khỏi những khó khăn mà nhân loại gặp phải.
Nhưng điều tất yếu phải xảy ra là chế độ mới đã không ngừng lan rộng ra khắp Trái đất, những dân tộc và chủng tộc rất khác nhau đã trở thành một gia đình duy nhất, hòa hợp và tinh khôn. Kỷ nguyên Thế giới đại đồng — Kỷ nguyên ĐĐ — đã bắt đầu như thế, nó gồm các thời đại Liên bang các nước, thời đại Ngôn ngữ dân tộc và thời đại Ngôn ngữ chung.
Sự phát triển xã hội ngày càng mau lẹ hơn thời đại trước. Uy quyền của con người đối với thiên nhiên tiến những bước khổng lồ.
Trong những câu chuyện không tưởng cổ xưa về một tương lai huy hoàng, người ta mơ ước dần dần giải thoát con người khỏi công việc lao động. Các nhà văn đoán trước rằng chỉ cần một thời gian lao động ngắn ngủi — hai ba giờ vì phúc lợi — loài người sẽ có thể đảm bảo cho mình mọi thứ cần thiết, và số thời gian còn lại sẽ là thời gian nhàn rỗi sung sướng.
Những quan niệm ấy nảy sinh từ lòng căm ghét lao động nặng nhọc cưỡng bức thời xưa.
Chẳng bao lâu người ta đã hiểu rằng lao động là hạnh phúc, cũng như việc đấu tranh không ngừng với thiên nhiên, việc khắc phục những trở ngại, việc giải quyết những nhiệm vụ mới luôn luôn nảy ra trong sự phát triển khoa học và kinh tế. Lao động hết sức, hết lòng, nhưng lao động là sáng tạo, hợp với những khả năng bẩm sinh và hợp sở thích, nhiều hình nhiều vẻ và lâu lâu lại thay đổi: đó là cái cần thiết cho con người. Sự phát triển của xi-béc- nê-tíc — kỹ thuật điều khiển tự động, — học vấn rộng rãi và trình độ trí tuệ cao, sự giáo dục thể lực tuyệt vời của từng người, tất cả những cái đó cho phép thay đổi nghề nghiệp, nhanh chóng nắm vững những nghề khác và làm hoạt động lao động trở lên muôn hình muôn vẻ, khiến cho người ta thấy niềm vui thích ngày càng lớn lao trong lao động. Khoa học phát triển ngày càng rộng rãi, bao trùm toàn bộ đời sống con người và đông đảo quần chúng có thể biết được niềm hân hoan sáng tạo của người khám phá ra những bí mật của thiên nhiên.
Nghệ thuật gánh vác một phần rất lớn trong trong sự nghiệp giáo dục xã hội và tổ chức đời sống. Một kỷ nguyên vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử loài người đã đến: kỷ nguyên Lao động chung, gồm những thời đại: đơn giản hóa các đồ vật, tổ chức lại, tình trạng dư thừa lần đầu tiên và thời đại vũ trụ.